🌉 Câu Chuyện Về Đinh Bộ Lĩnh

🕗 Tiểu sử Đinh Bộ Lĩnh Đinh Tiên Hoàng. Danh nhân anh hùng dân tộc việt nam.Đinh Tiên Hoàng (22 tháng 3 năm 924 tháng 10 năm 979), tên húy là Đinh Bộ Lĩnh, hoặc có sách gọi Đinh Hoàn , là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Mua Sách - Tranh Truyện Lịch Sử Việt Nam - Đinh Bộ Lĩnh giá tốt. Mua hàng qua mạng uy tín, tiện lợi. Shopee đảm bảo nhận hàng, hoặc được hoàn lại tiền Giao Hàng Miễn Phí. XEM NGAY! Với ngôn ngữ ngắn gọn, cách diễn đạt dễ hiểu gần gũi sinh động, nội dung các câu chuyện về danh nhân trong bộ sách Danh nhân Việt Nam song ngữ đều mang những thông điệp và bài học về đạo đức ý nghĩa cho trẻ. Các tấm gương sáng hiếu học, không ngại khó ngại khổ Phật giáo Tây Tạng: Kiếm tìm linh đồng chuyển thế. Linh đồng chuyển thế là những người tu hành có thành tựu trong Phật giáo Tây Tạng, sau khi viên tịch sẽ lại chuyển sinh để tiếp tục tu hành. 01/06/2022 08:17. Hai chị em gái mất cùng lúc, tái sinh đồng thời, cùng cha mẹ Đinh Điền - bạn nối khố, danh tướng phò tá vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân: Sống phụng sự, chết trung nghĩa. Thuở ấu thơ, Đinh Điền cùng bạn lấy hoa lau làm cờ, khoanh tay làm kiệu, suy tôn và rước Đinh Bộ Lĩnh làm chúa. Lớn lên, ông phò tá bạn dẹp loạn 12 sứ quân Để giải thích cho sự tồn tại ngắn ngủi của nhà Đinh, người ta cũng sáng tác ra “chuyện ngọc khuê bị sứt” (như Toàn thư) hay chuyện “đeo kiếm cổ ngựa của ông thầy địa lý Tàu“ (như Lĩnh Nam chích quái ). Để giải thích cho việc họ Lê sẽ lên thay họ Đinh, Toàn Thừa thắng, Đinh Bộ Lĩnh đem quân đánh chiếm được Đỗ Động GIang. Giao chiến hơn 1 năm sau, đến năm 967 thì Đỗ Cảnh Thạc không còn đủ sức chống đỡ, bị trúng tên và mất ở núi Sài Sơn. Đinh Tiên Hoàng đánh bại 12 Sứ quân thống nhất Giang Sơn . 20/03/2017 09:09. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, khai mở triều đại nhà Đinh. Lên ngôi chưa lâu, ông bị hại khi đang ngủ. Đến nay, nhiều nhà sử học còn tranh luận về thủ phạm giết vua. Đinh Bộ Lĩnh sinh ngày rằm tháng 2 năm Giáp Thân (tức ngày 22/3/924). Ông là con của Ba việc làm khẳng định nước Nam độc lập. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngay khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã ” đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, khởi đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung diện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng NAW0XHv. 1. Chân mệnh đế vương từ thuở lọt lòng2. Được Rồng-Thần bảo hộ từ tấm bé 3. Dẹp loạn 12 sứ quân và những lần báo mộng về thiên mệnh với thế gian4. Xưng đế, lập kinh đô Hoa Lư, thuận theo Thiên Ý5. Sấm truyền về số mệnh 12 năm tại vị của Đinh Tiên Hoàng và sự chuyển tiếp triều Lê6. Câu sấm động nhân gian Mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên Cõi nhân sinh như mộng thoảng, quá khứ đẹp đẽ tráng lệ thuở nào. Người xưa quay trở về, nhìn lại đã nghìn năm trôi qua… Kinh thành đất Việt ngày xưa ấy, núi rừng trùng điệp, non nước đẹp như thơ, hai vị hoàng đế nhà Đinh-Lê trong những chiếc áo bào uy nghi lộng lẫy ra trận, hoàng hậu ghim cài gương soi, những vị quan văn quan võ chính trực thành tín, công chúa thanh tao hiền thục, những thiên tình sử triều đình bi thương mà khí phách, những trung thần oai hùng tuẫn tiết theo vua, họ trở về như bức tranh đối lập với con người hiện đại vội vã mệt mỏi trong guồng quay bận rộn của cuộc sống và những lo toan cá nhân dường như bất tận… Lòng bỗng chùng xuống, dịu lại, êm ả bước vào bức tranh cổ tích… Là con người hiện đại của thời nay, trong cuộc sống hối hả này, khi dừng lại trong một khoảng tĩnh lặng, chợt thấy rằng những vẻ đẹp Trung – Hiếu – Nghĩa ấy là vẻ đẹp lẫm liệt và vĩnh cửu. Mời quý độc giả lên xe bước vào hành trình ngược về quá khứ, tìm lại năm tháng huy hoàng thuở nào… Kinh thành đất Việt ngày xưa ấy, núi rừng trùng điệp, non nước đẹp như thơ Đinh Bộ Lĩnh Chân mệnh đế vương, thống nhất giang sơn, xưng đế dựng lập kinh đô Hoa Lư nước Đại Cồ Việt – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, “sơn thanh thủy tú” Triều Đinh Lê thế kỷ 10 gắn với giai đoạn lịch sử đặc biệt của Việt Nam, giai đoạn của kỷ nguyên độc lập, tự chủ và phục hưng dân tộc sau 1000 năm Bắc thuộc. Thành tựu của thế kỷ này là sự thành lập và củng cố chính quyền độc lập từ nền móng ban đầu của chính quyền họ Khúc, họ Dương đến vương triều Ngô, Đinh, tiền Lê; trong đó nhân vật lịch sử Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn đã ghi dấu những mốc son chói lọi. Đinh Bộ Lĩnh, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn, trở thành vị Hoàng đế khai sáng đầu tiên của nước Đại Cồ Việt độc lập sau một ngàn năm phương Bắc đô hộ. 1. Chân mệnh đế vương từ thuở lọt lòng Đinh Bộ Lĩnh là con của ông Đinh Công Trứ, quê ở làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng tức thôn Văn Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ngày nay; và bà Đàm Thị. Ông Đinh Công Trứ vào Châu Ái Thanh Hóa ngày nay tham gia cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ, được phong làm thứ sử Châu Hoan nay là Nghệ An. Đến thời Ngô Quyền con rể của Dương Đình Nghệ, ông Đinh Công Trứ vẫn được làm thứ sử Châu Hoan. Sách sử chép lại rằng, Đinh Bộ Lĩnh sinh ra trong khoảnh khắc “Hôm ấy trời đang nắng chang chang, bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, mây đen vần vũ”. Khi bà Đàm Thị khai hoa nở nhụy, những nguời vào động lễ sơn thần thấy trên các cây sen núi, lá nào cũng có vệt sên bò thành chữ “Thiên tử” con của Trời. Sau khi ông Đinh Công Trứ mất, bà Đàm Thị đưa Đinh Bộ Lĩnh về quê ở động Hoa Lư, sống nương nhờ vào người chú của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Thúc Dự. Từ nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã có biệt tài về bơi lội. Dòng sông chảy qua làng rất lớn, rất sâu và xiết, chỉ có Đinh Bộ Lĩnh mới bơi ra được giữa dòng, lặn sâu xuống bắt được cá. Ai muốn ba ba to chừng nào chỉ cần lấy tay vẽ lên cát, đứng chờ một lát Lĩnh sẽ bắt lên đúng như hình vẽ này. Chính tài lạ này khiến cho dân làng càng tin Lĩnh là con của Thần, bởi vì người thường thì làm sao có thể bơi lặn giỏi như thế. Không chỉ có tài về bơi lặn, Đinh Bộ Lĩnh còn là một tài năng quân sự ngay từ thuở chăn trâu cắt cỏ. Dưới bóng cờ lau, ông và các bạn thân cùng trang lứa ở Sách Bông như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ đã thao tập, luyện rèn, tập đánh trận giả. Thấy Đinh Bộ Lĩnh có nhiều tài lạ, các “huynh đệ” chăn trâu tôn làm “vua”, khoanh tay giả làm ngai vàng để rước theo lễ, lấy hoa lau làm cờ cho quân mang phía trước và có các “quan” đi rước ở hai bên, giống như nghi thức rước thiên tử của triều đình. Đội quân trẻ trâu của Đinh Bộ Lĩnh thường “chiến đấu” với đám trẻ trâu ở những làng khác, tiến thoái có quy củ và đánh đâu… thắng đó làm cho “quân địch” vừa sợ vừa phục, khiến Đinh Bộ Lĩnh được tôn vinh “Vạn Thắng Vương”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau “Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn”. Cờ lau tập trận ở Thung LauMưu lược tài cao thưở ban đầuLũ trẻ công kênh làm minh chúaAi biết làm vua kẻ chăn trâu Hoa Lư địa lợi với nhân hòaHai đường thủy bộ dễ vào raNúi non trùng điệp thành chiến lũySứ quân yên loạn cõi sơn hà Lên ngôi đế hiệu Đinh Tiên HoàngĐất nước an hòa cả giang sanSánh ngang Hoàng đế vua đất BắcChủ quyền dân tộc được an bang. Vua Đinh Tiên Hoàng 2. Được Rồng-Thần bảo hộ từ tấm bé Khi nhắc đến cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh, người ta thường không thể không nhắc đến hình ảnh rồng vàng. Những gì người dân chứng kiến được ghi chép lại và truyền sang các đời sau. Lâu dần người đời gọi đó là truyền thuyết. Sự tích có ghi lại, thuở còn chơi trò cờ lau tập trận, sau khi được khiêng kiệu, Đinh Bộ Lĩnh đã dám giết trâu của chú để khao quân. Bị chú cầm gươm lăm lăm đuổi, những tưởng là ông không thoát khỏi cái chết. Thế nhưng ngay sau lời gọi “Rồng ơi rồng, chở ta qua sông, cứu ta với” thì một con rồng vàng lớn hiện ra, hụp đầu ba lạy như vái, như chào mời rồi ghé sát lưng đón Bộ Lĩnh qua sông. Người chú đang vung gươm thấy vậy sợ hãi, biết cháu mình có chân mệnh đế vương, nên vội quỳ lạy và cắm gươm xuống. Hiện nay còn lưu lại dấu tích núi Cắm Gươm còn gọi là núi Vân Sơn. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại sự kiện này như sau “Người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hoàng long hộ vệ vua” Vân Sơn bao bọc đền Đinh LêPhù điêu thủy mạc đón người vềTrông xa núi báu gươm còn đóHoàng Long uốn lượn giữa Sào KhêVân Sơn Rồng vàng không chỉ giúp Bộ Lĩnh thoát khỏi lửa hận của ông chú mà còn chỉ ra những bước đầu tiên để tạo dựng được cơ đồ đế vương “Trời còn thử thách đại vương dăm ba năm nữa. Cuộc đời, sự nghiệp của đại vương phải trải qua một vòng tròn khép kín từ rừng ra bể rồi lại về rừng” Đinh Bộ Lĩnh cưỡi rồng về Cửa Bố. Ở nơi Hoa Lư, con sông mà Đinh Bộ Lĩnh được rồng vàng hộ mệnh chở bay qua có tên Hoàng Long, còn núi Bái Đính như một con long mã tung bờm lao về phía Bắc ở thế thượng phong Hoa Lư kinh thành của đế vươngMây bay phủ núi lũy biên cươngHoàng Long dậy sóng ngàn năm ngủLong mã truy phong thượng đạo cường Thiên tôn sư tử phục hướng đôngVăng vẳng trời nam sáo mục đồngCờ lau thuở ấy còn soi bóngRồng vàng lượn sóng giữa thinh không Thành cổ 3. Dẹp loạn 12 sứ quân và những lần báo mộng về thiên mệnh với thế gian Loạn 12 sứ quân sứ quân có nghĩa là “Vua cai trị” là một giai đoạn loạn lạc của lịch sử Việt Nam, xen giữa nhà Ngô và nhà Đinh. Giai đoạn này phát triển mạnh từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Loạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm 944-968 và kết thúc khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt – nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi về sự kiện này “Nam Tấn Vương mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ.” Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét Vận trời đất, bĩ rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy. Sách Việt Giám Thông Khảo tổng luận ca ngợi “Vua bình được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi,… sáng chế triều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy, kể về mặt dẹp giặc phá địch thì công to lắm.” Từ “căn cứ địa Hoa Lư” này, với “tài năng, thông minh hơn người, dũng lược nhất đời” theo mô tả của Đại Việt sử ký toàn thư, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt khéo léo dùng mưu lược, kế sách để thu phục, hàng phục hoặc xuất quân tấn công tiêu diệt, dẹp xong “loạn sứ quân” vào năm 967. Các giấc mộng báo về thiên mệnh thống nhất giang sơn của ông xuất hiện không chỉ một lần, như mộng báo cho sứ quân Trần Minh Công biết sự xuất hiện của nhân vật tài năng là Đinh Bộ Lĩnh, báo cho sứ quân Phạm Bạch Hổ biết nên quy thuận vua Đinh vì Đinh Bộ Lĩnh chính là tướng tài đã được trao thiên mệnh. Hoặc có khi đó lại là những giấc mộng báo các vị tướng tài sẽ trợ giúp cho Đinh Bộ Lĩnh lập nên nghiệp lớn như Ba vị tướng tài ở Thạch Khê, ba vị tướng quân ở Lộng Đình – Kinh Bắc… Dũng lược tài ba khắp thiên hạSứ quân lần lượt quy phục hàngĐế nghiệp từ đây soi bóng cảBộ Lĩnh cờ lau Đinh Tiên HoàngQuân thành 4. Xưng đế, lập kinh đô Hoa Lư, thuận theo Thiên Ý Trước khi đi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh vào động Thiên lập Kính Thiên Đài cầu thắng giặc Thiên Tôn nằm chân núi Dũng ĐươngTrấn vũ Hoa Lư đại điện đườngVua Đinh ứng nghiệm lời cầu nguyệnTiền tế Kính Thiên đài dâng hương Oai nghiêm thần đứng tại Long ĐìnhRồng chầu một cặp tỏa khí linhNgàn năm trấn giữ đất anh kiệtTrời Nam một dải đất thanh bình. Chùa Thiên Tôn Cố đô Hoa Lư – ngàn năm trấn giữ đất anh kiệt – Trời Nam một dải đất thanh bình. Năm 968, sau khi bình định 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, xưng là “Đại Thắng Minh hoàng đế” chọn Hoa Lư làm kinh đô, cho xây cung điện, sắp đặt trăm quan, chế triều nghi, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Hoa Lư trở thành kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền của Việt Nam. Nơi đây gắn liền với ba triều đại Đinh, Tiền Lê và khởi đầu nhà Lý – tính từ vua Đinh Tiên Hoàng Đinh Bộ Lĩnh đến thời vua Lý Thái Tông. Hai năm sau khi tôn xưng “Hoàng Đế”, Đinh Tiên Hoàng bỏ niên hiệu của các hoàng đế phong kiến phương Bắc, tự đặt niên hiệu riêng là “Thái Bình” và cho đúc đồng tiền đầu tiên có tên “Thái Bình hưng bảo”. Như vậy, tuy chỉ là vị “đế” thứ ba sau Lý Nam Đế và Mai Hắc Đế song Đinh Tiên Hoàng lại là người đầu tiên xưng “Hoàng Đế” xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên của nước ta được triều đình phương Bắc công nhận. Trong bộ quốc sử uy tín “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Lê Văn Hưu cũng viết về “thiên ý” này Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống. 5. Sấm truyền về số mệnh 12 năm tại vị của Đinh Tiên Hoàng và sự chuyển tiếp triều Lê Đinh Tiên Hoàng ở ngôi 12 năm từ đầu năm 968 đến cuối năm 979, đến tháng 10 năm Kỷ Mão 979 bị kẻ bề tôi phản nghịch là Đỗ Thích thích sát, thọ 55 tuổi, con trai ông là Đinh Liễn cũng bị hại cùng vua cha. Theo sách sử chép lại, Đỗ Thích giết vua là để cướp ngôi. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cho biết như sau “Trước đó Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân, Thích bèn giết chết.” Theo ghi chép sử sách thì số mệnh Hoàng đế đã được dự báo trước nhiều lần Viên ngọc khuyết góc sáng dưới đáy sông và lời tiên tri của nhà sư trụ trì chùa Giao Thủy. Trong Đại Việt sử ký tiền biên chép “Khi vua còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thuỷ, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than rằng “Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được dài.” Duyên gặp gỡ giữa Đinh Bộ Lĩnh với sư trụ trì chùa Giao Thuỷ chùa Cổ Lễ, Nam Định nay được Thiên Nam ngữ lục khái lược rõ hơn. Theo đó, khi Đinh Bộ Lĩnh ngược xuôi theo sông đánh cá mưu sinh, bởi có duyên tiền định nên được biết tới ánh hào quang phát dưới sông đã mười hai năm. Sau này, như có mệnh báo trước, nghiệp đế của ông cũng kéo dài 12 năm thì dứt chốn hồng trần. Mệnh trời đã định nẻo xưa,Ngọc khuê dành để đợi chờ đế vương. Thường thường có khí hào quang,Đêm đêm sáng dậy bên giang trùng trùng. Bộ Lĩnh hỏi chúng ngư ông, “Ấy gì mà sáng dưới sông đấy rầy?” Chúng ngư bèn bảo rằng bâySáng ở sông này đã mười hai năm. 12 năm ngọc nằm dưới đáy sông không ai biết mà lấy được. Vậy mà đến Đinh Bộ Lĩnh, ông tìm được viên ngọc quý ấy. Như Việt sử diễn âm đời Mạc viết Được một báu vàng đem lên,Đánh phải đầu thuyền khuyết một góc đi. Chính vì ngọc quý “khuyết một góc” đã trở thành điềm trời định dành cho hậu vận của vị vua tương lai. Sư trụ trì của chùa vốn trước kia làm đạo sĩ tinh thông tướng số, biết nhìn người. Đêm ấy, viên ngọc quý nằm trong giỏ cá “Bỗng sao sáng khắp hòa chiền”. Câu chuyện về viên ngọc mỗi lúc lại một tỏ Sáng ngày thầy hỏi trước sau,Ngọc khuê nghĩ mới đem hầu thầy đi nhìn lại một thôi,Giờ lâu thầy mới mở lời nói ra.“Con ta phúc đức thay là,Ngày sau làm chúa quốc gia trị hiềm phúc hậu chẳng dài,Vắn dài có số tượng trời đã chia. 6. Câu sấm động nhân gian Mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên Lên ngôi cao trong thiên hạ, đến năm Giáp Tuất 974 đời vua Đinh Tiên Hoàng, tức là 5 năm trước khi xảy ra vụ mưu sát của kẻ phản nghịch, trong dân gian đã có xuất hiện bài sấm, báo trước việc có một người tên Đỗ Thích sau này sẽ sát hại vua và sự nối ngôi của triều Lê Đỗ Thích thí Đinh Đinh,Lê gia xuất thánh minh,Cạnh đầu đa hoành nhi,Đạo lộ tuyệt nhân hành,Thập nhị xưng đại vương,Thập ác vô nhất liệt,Thập bát tử đăng tiên,Kế đô nhập nhị thiên. Dù câu sấm được cho là xuất hiện ngay trong thời trị vì của Đinh Tiên Hoàng, lại chỉ rõ cả tên kẻ phản nghịch là Đỗ Thích, dù hậu vận đã được dự báo từ thuở hàn vi, nhưng vua Đinh vẫn không có biện pháp gì để phòng ngừa. Điều đó có lẽ để cho hậu thế hiểu rằng, số trời đã định ắt khó tránh. Tháng 11 năm Kỷ Mão 979, đêm ấy vua Đinh Tiên Hoàng ngự tiệc ở điện với quần thần, uống rượu say, nằm ngủ luôn tại bậc thềm của sân điện. Phúc Hầu Hoằng là Đỗ Thích đã có dã tâm từ trước, ra tay giết vua và giết luôn cả Nam Việt Vương Đinh Liễn. *** Các bài thơ được sử dụng trong bài viết được trích dẫn từ tập thơ Hoa Lư Thi Tập, tác giả Hoàng Quang Thuận. “Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà. Hà Phương Linh Những chi tiết về cuộc đời ấu thơ của Đinh Bộ Lĩnh là một ví dụ tiêu biểu cho việc đan xen giữa huyền thoại và lịch Việt sử ký toàn thư Toàn thư trước nay vẫn được coi là bộ chính sử quan trọng nhất đối với các nhà sử học, văn hóa học,… Tính chính sử của nó được coi như cái mác bảo hành cho những gì ghi chép bên trong. Song do tình trạng thiếu khuyết tư liệu trầm trọng, mà văn bản này đã sưu tập không ít những huyền thoại, thần tích trong dân gian. Điều đó có thể hiểu được trong bối cảnh “văn – sử – triết bất phân”, là nơi chủ thể văn hóa không quan tâm, hoặc không thể phân biệt được ranh giới giữa các lĩnh vực khoa học. Điều nguy hiểm là ở chỗ, trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay, tư duy huyền thoại ngày càng lấn át tư duy sử học trong đời sống người Việt. Chúng ta đánh đồng huyền thoại và lịch sử. Ở một số trường hợp cụ thể, chúng ta “làm sử” chỉ là kéo dài cách nghĩ của từ vài trăm năm trước. Nói cách khác đó là lối làm sử “hậu phong kiến”. Một ví dụ tiêu biểu cho việc đan xen giữa huyền thoại và lịch sử là chi tiết về cuộc đời ấu thơ của Đinh Bộ Lĩnh. Toàn thư ghi như sau Xưa, cha của vua là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ giao giữ chức quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ chức cũ, rồi mất. Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hằng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau “Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn”. Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương1. Đoạn trích trên lâu nay vẫn được coi như một sử liệu nguyên khối và khả tín. Chưa thấy nhà nghiên cứu nào tiến hành giám định sử liệu, hay cao hơn phê phán sử liệu cho trường hợp này. Trong thế kỷ XX, hình tượng chú bé mồ côi, chăn trâu không chỉ dừng lại ở sách sử mà nó đã được chuyển hóa vào đời sống của người Việt hiện đại. Người ta tiếp tục bồi đắp để xây dựng thành một huyền thoại “cờ lau dựng nước”. Những tác phẩm nghệ thuật xuất hiện trong nhiều năm qua khai thác chủ để này là những minh chứng cụ thể. Phải kể đến hai bức tranh dân gian Đông Hồ một bức là hoạt cảnh Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu có hai trẻ cầm cờ lau hộ giá, một bức là cảnh Đinh Bộ Lĩnh được rồng che chở khi bị ông chú Đinh Dự truy sát. Chúng ta còn biết đến cuốn tiểu thuyết lịch sử “Cờ lau dựng nước” 2001 của nhà văn Ngô Văn Phú2, “Hoàng Đế cờ lau” 2010 của Nguyễn Khắc Triệu3, truyện tranh cho thiếu nhi “Đinh Bộ Lĩnh” 2000 trong bộ tranh truyện lịch sử Việt Nam4, truyện lịch sử “Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh” 2000 của Lữ Giang5, truyện tranh “Cờ lau tập trận” 1999 trong bộ “Truyện xưa đất Việt” 24 tập của Tạ Chí Đông Hải6… Để giám định tính khả tín của đoạn sử liệu trên, chúng ta ít nhất phải có những sử liệu độc lập soi chiếu. Chúng tôi muốn nhắc đến đoạn sau đây trong sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đảo 1115- 1184 ghi “Trước, Dương Đình Nghệ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, sai Nha tướng Đinh Công Trứ nhiếp Hoan châu Thứ sử. Công Trứ chết, con Bộ Lĩnh nối chức ấy. Khi đó, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn cùng thống soái ba vạn người đánh phá bọn Xử Bình, đất ấy mới yên, bèn tự lập làm Vạn Thắng Vương, lấy Liễn làm Tĩnh Hải tiết độ sứ.”7 Sách Văn hiến Thông khảo của sử gia Mã Đoan Lâm 1254 – 1324 đời Tống ghi “Trước, Dương Đình Nghệ lấy Nha tướng Đinh Công Trứ giữ chức Hoan châu Thứ sử, và Ngự phiên Đô đốc. Bộ Lĩnh con của Công Trứ vậy. Khi Công Trứ chết, Bộ Lĩnh nối các chức ấy. Đến đây, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem binh đánh bại bọn Xử Bình, tặc đảng tan vỡ, cảnh nội đều yên, dân ơn đức ấy bèn suy Bộ Lĩnh làm Giao Châu soái, hiệu là Đại Thắng Vương.”8 Sách An Nam chí lược của Lê Trắc ghi “Cuối đời Ngũ Đại, Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha.”9 Điều đáng chú ý là thời gian định bản của các sử liệu trên xuất hiện trước Toàn thư từ hai đến năm thế kỷ10. Nguyễn Danh Phiệt trong “Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước” đã chứng minh rằng không hề có chuyện Đinh Bộ Lĩnh mồ côi cha từ bé. Theo cách tính của Nguyễn Danh Phiệt, Đinh Công Trứ mất khi Đinh Bộ Lĩnh quãng từ 15 đến 20 tuổi11. Vậy, việc “nối cha giữ chức Thứ sử Hoan Châu và Ngự phiên Đô đốc” có thể sẽ xảy ra vào quãng năm 940 đến 944, khi Đinh Bộ Lĩnh từ 15 đến 20 tuổi. Keith Weller Taylor cũng dựa vào sử liệu nhà Tống mà đoán định rằng Đinh Bộ Lĩnh giữ chức Thứ sử Hoan – Ái vào thời Bình Vương Dương Tam Kha ở ngôi12. Trong khi Nguyễn Danh Phiệt phủ nhận việc Đinh Bộ Lĩnh nối chức cha bằng các truyền thuyết và sử liệu dân gian, thì chúng tôi cho rằng, quãng tuổi từ 15 – 20 là quãng tuổi hoàn toàn có thể nhậm chức trong thời xưa theo phép tập ấm. Những thông tin này rất quan trọng. Từ đây, có thể nhận định rằng 1 Đinh Bộ Lĩnh không phải trẻ mồ côi, mà chỉ mất cha quãng thời thanh niên. 2 Đinh Bộ Lĩnh là con của danh gia vọng tộc, con của quan chức cao cấp nhà Ngô. 3 Khi cha mất, ông có khả năng được tập ấm các chức Thứ sử Hoan Châu, Ngự phiên Đô đốc. Như nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã lý giải rằng, Đinh Bộ Lĩnh đã bị mất chức mà phải trở về nguyên quán là động Hoa Lư có lẽ vì liên quan đến thế lực Dương Tam Kha. Trở về Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh hẳn đã vấp phải những mâu thuẫn quyền lực trong nội bộ gia tộc mà câu chuyện hai chú cháu Đinh Dự – Đinh Bộ Lĩnh đánh lẫn nhau là một kiểu trầm tích lịch sử được hóa thạch trong truyền thuyết như Toàn thư đã ghi. Từ cái lõi lịch sử này, dân gian nhiều đời đã xây dựng nhiều huyền thoại khác nhau. Đại Việt sử ký tiền biên còn sưu tầm một huyền thoại ngộ nghĩnh hơn, rằng Đinh Dự muốn giết cháu bởi vì Đinh Bộ Lĩnh đã dám giết lợn nhà để khao đám trẻ chăn trâu14. Đến đây, nhìn lại những ghi chép trong Toàn thư, ta sẽ thấy các chuyện “mồ côi cha từ bé”, “cùng bọn trẻ chăn trâu ngoài đồng”, “cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử”, “hai con rồng vàng hộ vệ vua”… đều là những chuyện sáng tác của đời sau, ít nhất là vào thế kỷ XV- thời Lê sơ – sau thời của Đinh Bộ Lĩnh quãng 500 năm. Huyền thoại là những câu chuyện kể huyền hoặc hoang đường, là một thể loại của văn học dân gian, tức nó là một sản phẩm “hư cấu”. Trái lại, lịch sử là một sản phẩm “thực cấu” của quá trình thu thập thông tin, nhận thức, xử lý thông tin và tư duy sử học. Cái LỊCH SỬ TUYỆT ĐỐI là toàn bộ tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, là cái đích mà nhà sử học muốn hướng đến. Nó là cái đích không tưởng, vì sẽ không bao giờ có thể tri nhận nó một cách tuyệt đối – toàn diện, mà chỉ có thể tiệm cận đến nó một phần nào đó. Tuyệt vọng trước cái bất khả toàn tri ấy, dân gian đã sáng tác ra các huyền thoại để lấp đầy những nhu cầu về sự hiểu biết. Tham vọng trước cái bất khả toàn tri ấy, nhà sử học buộc phải tiến hành các thao tác tư duy trên những mảnh vụn chắp vá của sử liệu. Nhưng trớ trêu thay, có những lịch sử đã trở thành huyền thoại, và cũng có những huyền thoại chưa bao giờ là lịch sử! —————— 1 Chính Hòa thứ mười tám 1697. Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2 Ngô Văn Phú. 2001. Cờ lau dựng nước. NXB Kim Đồng. Hà Nội. 3 Nguyễn Khắc Triệu. 2010. Hoàng đế cờ lau. NXB Văn học. Hà Nội. 4 2000. Đinh Bộ Lĩnh. Tranh Tạ Huy Long. Lời Kim Đồng soạn theo “Đại Việt sử ký toàn thư”. NXB Kim Đồng. Hà Nội. 5 Lữ Giang. 2000. Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh. Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh. Tp. HCM. 6 Tạ Chí Đông Hải. 1999. Cờ lau tập trận. NXB Giáo dục. Hà Nội. 7 Nguyên văn “始楊庭藝為静海節度使遣牙將丁公著攝驩州刺史公著死子部領繼之於是部領與其子璉同帥兵三萬人擊破處玶等境内以安遂自立為萬勝王以璉為静海節度使” [Tống Lý Đảo. Tục tư trị thông giám trường biên. Đài Loan thương vụ. Đài Bắc Thị. Dân quốc 72. 8 Nguyên văn “先是楊廷藝以牙將丁公著攝驩州刺史兼禦蕃都督部領即其子也公著死部領繼之至是部領與其子璉率兵擊敗處玶等賊黨潰散境内安堵部民德之乃推部領為交州帥號曰大勝王” [Nguyên Mã Đoan Lâm. Văn hiến thông khảo. Đài Loan thương vụ. Đài Bắc thị. Dân quốc 72. Xem thêm Nguyên Thoát Thoát soạn, Dương Gia Lạc chủ biên. Tống sử. “Trung Quốc học thuật loại biên”. Đỉnh Văn thư cục. Đỉnh Văn Thư cục. Đài Bắc thị. Dân Quốc 69 1980. Phần Liệt truyện. 9 Lê Trắc. 1335. An Nam chí lược. Mạnh Nghị Trần Kinh Hòa dịch 1960, tb 2002. NXB Thuận Hóa- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Huế. 10 Sử liệu này được biên soạn trong nhiều thế kỷ, vết tích sớm và chắc chắn nhất là từ thế kỷ XV tới văn bản cuối là vào năm 1697. 11 Nguyễn Danh Phiệt. 1990. Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước. NXB KHXH. H. 12 K. Taylor. 1983. The Birth of Vietnam. University of California Press. 13 Ngô Thì Sĩ soạn, Ngô Thì Nhậm tu đính. 1800 khắc in. Đại Việt sử ký tiền biên. Bắc Thành học đường tàng bản. Ký hiệu A2/2-7. Lê Văn Bảy, Dương Thị The, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa dịch, Lê Duy Chưởng hiệu đính. NXB

câu chuyện về đinh bộ lĩnh